Hỗ trợ gắn bó với nông thôn Việt Nam
“Ngân hàng Vịt” và kiến thức nông nghiệp hữu cơ
Bà Mayu Ino, người đã gắn bó với nông thôn Việt Nam từ năm 1997 và hiện đang giữ chức Trưởng đại diện của Tổ chức phi lợi nhuận NPO. Dù gặp không ít khó khăn trong việc hỗ trợ các hộ nghèo hay phát triển nông nghiệp hữu cơ nhưng bà vẫn luôn giữ nụ cười trên môi. Bà chia sẻ rằng điều quan trọng là hỗ trợ lâu dài và gắn bó với địa phương.
“Ngân hàng Vịt” tại tỉnh Bến Tre (cũ)
―― Xin vui lòng cho biết bối cảnh thành lập tổ chức Seed to Table.
Inou:Văn phòng JVC tại Việt Nam, nơi tôi công tác, đã quyết định chấm dứt hoạt động vào tháng 3 năm 2009. Tuy nhiên, vì tôi vẫn muốn tiếp tục công việc thêm một thời gian nữa nên đã xây dựng một hình thức hoạt động linh hoạt hơn. Nội dung hoạt động chủ yếu là hỗ trợ ổn định cuộc sống cho các hộ nghèo ở nông thôn và các nông hộ quy mô nhỏ.
Để hỗ trợ khu vực nông thôn, trước hết cần phải bảo vệ được thiên nhiên. Trên nền tảng đó, cộng đồng sẽ cùng suy nghĩ xem làm thế nào để tạo ra thu nhập. Tuy nhiên, dù có hệ thống tốt đến đâu, thì con người vẫn là yếu tố vận hành, nên điều quan trọng là phải xây dựng mối quan hệ hợp tác lâu dài và duy trì, mở rộng theo thời gian.
Đây là một xu hướng mang tính toàn cầu, nhưng hệ sinh thái ở Việt Nam cũng đang dần bị phá vỡ. Việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và phân bón hóa học đang gây ô nhiễm đất và nguồn nước, nạn chặt phá rừng và cạn kiệt nguồn tài nguyên thủy sản cũng đang ngày càng trở nên nghiêm trọng. Ở nông thôn, tình trạng già hóa dân số đang gia tăng, và số lượng người trẻ kế nghiệp ngày càng giảm.
Từ sau năm 2010, quá trình khai thác, quy hoạch đất đai diễn ra mạnh mẽ, dẫn đến diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp. Đặc biệt là ở miền Bắc, do diện tích đất mà các nông hộ sở hữu khá nhỏ, nên ngày càng có nhiều người chọn bán đất nếu được giá cao. Ngày xưa, cũng giống như nông dân Nhật Bản, từng có phần đông người nghĩ rằng “phải trân trọng mảnh đất tổ tiên để lại”.
Tất nhiên, nông dân Việt Nam rất siêng năng, chăm chỉ, có kiến thức sâu về quản lý nước và kỹ thuật trồng lúa, đồng thời cũng rất tự hào về nghề nông của mình. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề như sự suy giảm cộng đồng và đứt gãy trong việc kế thừa kỹ thuật,v.v. nên chúng tôi cảm thấy đây chính là lúc vai trò hỗ trợ của mình trở nên cần thiết.

―― Xin cho biết bà đã bắt đầu công việc từ những hoạt động cụ thể nào?
Inou:Ngay từ năm đầu tiên thành lập, chúng tôi may mắn nhận được sự hỗ trợ từ một quỹ tài trợ. Dựa trên cơ duyên đã có từ thời làm việc tại JVC với tỉnh Bến Tre (cũ), tôi quyết định triển khai mô hình nuôi vịt thả đồng tại đây – thả vịt vào ruộng lúa để chúng ăn cỏ dại và sâu hại. Tuy nhiên, vì các hộ có ruộng lúa thường khá khá giả, nên tôi chọn làm việc với 40 hộ nghèo không có đất canh tác. Tôi đã dành 2–3 tiếng cho mỗi hộ, đến từng nhà để lắng nghe câu chuyện của họ.
Từ đó, tôi nghĩ ra mô hình gọi là “Ngân hàng Vịt”. Đây là mô hình cho mượn vịt con thay vì tiền mặt. Người dân nuôi lớn vịt rồi bán đi, sau đó hoàn lại chi phí mua con giống từ một phần lợi nhuận thu được.
Tôi nhận thấy việc sử dụng động vật thay cho tiền để cải thiện sinh kế sẽ dễ tiếp cận hơn đối với bà con, vì có những người đang mang nợ có thể sẽ dùng khoản vay để trả nợ cũ, và cũng có nhiều người mang tâm lý e ngại khi phải vay tiền.
Người vay sẽ đăng ký thông qua “Ủy ban xây dựng thôn ấp”, sau khi xác nhận điều kiện chăn nuôi và khả năng lao động, họ sẽ được tham gia đào tạo trước. Nội dung đào tạo bao gồm phương pháp chăn nuôi, cách ghi chép sổ sách, với sự hỗ trợ từ trưởng thôn của từng khu dân cư và Trung tâm Khuyến nông tỉnh Bến Tre.
Trong giai đoạn thành lập Seed to Table từ 2009 đến 2010, tôi đã tiến hành khảo sát và đồng thời chuẩn bị hồ sơ xin tài trợ cho năm tiếp theo, vì thông thường phải nộp đơn xin trước một năm. Nhờ may mắn, chúng tôi cũng nhận được nguồn tài trợ cho năm thứ hai, và đến khi kết thúc hoạt động ban đầu, chúng tôi đã tích lũy được 3 năm thực tiễn.
Đối với các tổ chức phi lợi nhuận, việc có kinh nghiệm hoạt động trong 3 năm là một cột mốc quan trọng. Nhờ đó, chúng tôi đã có thể nộp hồ sơ xin tài trợ từ chương trình “Viện trợ không hoàn lại cho các Dự án thuộc tổ chức NGO Nhật Bản” của Bộ Ngoại giao Nhật Bản và đã nhận được tài trợ.

―― Việc kêu gọi tài trợ và triển khai thực tế, cảm giác giống như đi trên dây phải không?
Inou:Vâng, cũng không phải chuyện hiếm đâu (cười). Nếu coi giai đoạn đầu là dự án thí điểm thì đã có 203 hộ tham gia, trong đó 63% đã thoát nghèo. Mỗi hộ được nhận 25 con vịt con, một chu kỳ từ nuôi đến bán kéo dài khoảng 3–4 tháng, và họ có thể lặp lại chu kỳ này 3–4 lần mỗi năm.
Mỗi lần bán có thể thu được khoảng 10.000 yên, không phải là con số lớn nhưng là nguồn thu ổn định, giúp họ cải thiện sinh kế khi kết hợp với những khoản thu nhập khác như làm thuê theo ngày. Với người tham gia, đây là một kế hoạch thực tế, và nhiều người đã có thể thoát nghèo chỉ sau khoảng một năm.
Nhờ khoản tài trợ từ Bộ Ngoại giao Nhật Bản, chương trình được tiếp tục mở rộng, các dự án của Bộ thường có thời hạn 3 năm, và trong thời gian đó, chúng tôi đã phát triển “Ngân hàng Vịt” đến hơn 1.000 hộ gia đình. Sau đó, chương trình vẫn được duy trì đến năm 2018 nhờ các nguồn hỗ trợ từ quỹ tư nhân.
Mô hình này dần gắn bó với địa phương, đến mức Sở Lao động – Thương binh và Xã hội cũ của tỉnh Bến Tre – cơ quan phụ trách các vấn đề về đói nghèo – đã chính thức áp dụng mô hình này để hỗ trợ hộ nghèo trên toàn tỉnh. Sau đó, Trung tâm Khuyến nông và Ủy ban xây dựng thôn ấp vẫn tiếp tục duy trì việc hỗ trợ cho các hộ nghèo.

Canh tác hữu cơ tại tỉnh Đồng Tháp
―― Xin hãy cho biết hoạt động canh tác hữu cơ tại Đồng Tháp hiện nay.
Inou:Tại tỉnh Bến Tre (cũ), bên cạnh mô hình “Ngân hàng vịt”, chúng tôi còn hỗ trợ nông nghiệp hữu cơ từ năm 2013 và vườn rau học đường từ năm 2017. Mục tiêu là tạo điều kiện cho các em nhỏ được trải nghiệm niềm vui trong nông nghiệp, từ đó gieo mầm sự quan tâm đến nông nghiệp trong tương lai, để các em có thể học hỏi, yêu thích và biết đâu sau này sẽ trở thành những người làm nông nghiệp. Tôi nghĩ đó cũng là cách để góp phần tăng số lượng nông dân trong bối cảnh hiện nay đang ngày một giảm đi.
Ban đầu, chúng tôi tập trung vào việc đào tạo trainer, đối tượng chính là Trung tâm Khuyến nông, đơn vị đối tác của dự án, việc giảng dạy do các huấn luyện viên người Việt đảm nhiệm.
Những cán bộ của Trung tâm đã có sẵn kiến thức nền tảng, nhiều người cũng từng học chuyên sâu ở các trường đại học nông nghiệp, nên thời gian đào tạo chỉ khoảng một tuần là đủ.
Những người đã được đào tạo ấy sau đó bắt đầu truyền đạt lại kiến thức về nông nghiệp hữu cơ cho nông dân và học sinh. Khi có điều gì chưa rõ, họ cùng nhau tìm hiểu thêm, và đôi khi còn mời cả nông dân từ Nhật Bản sang làm giảng viên, để nâng cao thêm kiến thức và kinh nghiệm.
Sau khi biết được nội dung hoạt động đó, tỉnh Đồng Tháp đã liên hệ với chúng tôi, và từ năm 2019, chúng tôi bắt đầu hỗ trợ phát triển nông nghiệp hữu cơ và vườn rau học đường tại đây. Ở Đồng Tháp, do đất nhiễm phèn, nên việc cải tạo đất ban đầu gặp khá nhiều khó khăn. Tuy nhiên, nhờ hợp tác với Trung tâm Khuyến nông và đặc biệt là xây dựng được mối liên kết với trường Cao đẳng Cộng đồng – một trường cao đẳng nghề hệ 3 năm, các hoạt động đã dần đi vào ổn định.
Hiệu trưởng và các thầy cô giáo của trường cũng đã chủ động đề xuất việc muốn cùng sinh viên thực hành nông nghiệp hữu cơ và thử nghiệm cả khâu tiêu thụ. Trường này là trường chuyên nghiệp vì cộng đồng, ngoài nông nghiệp còn đào tạo các ngành như cơ khí, chế biến thực phẩm, kinh doanh,v.v, đóng vai trò là một trung tâm đào tạo nghề. Do đó, không chỉ học sinh tốt nghiệp THPT mà cả học sinh tốt nghiệp THCS cũng có thể theo học.
Hiện nay, trường vẫn tiếp tục duy trì vườn rau học đường cùng với các nông hộ làm nông nghiệp hữu cơ, và những sản phẩm như rau củ, trái cây, kem xoài, xoài sấy dẻo, v.v. không chỉ được bán tại Đồng Tháp mà còn được đem ra chợ sáng ở TP. Hồ Chí Minh để tiêu thụ. Có lúc còn cháy hàng nữa đấy – được đánh giá rất tốt!

―― Xin hãy chia sẻ thêm về kế hoạch sắp tới.
Inou:Hoạt động tại tỉnh Đồng Tháp cũng nhận được sự hỗ trợ từ chương trình“Viện trợ không hoàn lại cho các Dự án thuộc tổ chức NGO Nhật Bản”. Trong 3 năm từ 2019 đến 2022, chúng tôi chủ yếu tập trung vào việc xây dựng các nhóm nông nghiệp hữu cơ và hướng dẫn kỹ thuật trồng trọt, chế biến nông sản hữu cơ. Từ năm 2022 đến 2025, giai đoạn thứ hai, chúng tôi đang tập trung vào việc đào tạo nguồn nhân lực có thể đảm nhận công việc trong lĩnh vực nông nghiệp hữu cơ và chế biến thực phẩm.
Hiện nay, số lượng nông dân hữu cơ đã tăng lên, và cũng có những bạn trẻ bày tỏ mong muốn khởi nghiệp. Tôi nghĩ lý tưởng nhất là trong tương lai, những người tốt nghiệp từ Trung tâm Khuyến nông và các trường cao đẳng chuyên ngành sẽ trở thành lực lượng nòng cốt hỗ trợ các vùng nông thôn thông qua nông nghiệp hữu cơ. Nếu sản xuất nông nghiệp và chế biến nông sản phát triển, chắc chắn sẽ có người nghĩ đến việc phát triển sản phẩm hoặc xuất khẩu sang Nhật Bản. Khi đó, có lẽ chúng tôi lại có vai trò để đóng góp.
Ban đầu, tôi định sẽ quay về Nhật sau khi kết thúc 3 năm của giai đoạn hai. Trong suốt thời gian qua, có lúc rơi nước mắt, có lúc vui cười, cũng có không ít khó khăn, nhưng tôi nghĩ mình đã làm hết những điều muốn làm nên không còn gì hối tiếc. Tuy nhiên, giờ đây lại có thêm một lời mời từ tỉnh Tiền Giang (cũ)….. Không biết đến khi nào tôi mới có thể trở về Nhật nữa đây…..